Con đường phát triển công nghiệp lọc, hoá dầu Việt Nam

 

(Kỳ 1)

 

Cùng với việc hoàn thiện các lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu, khí (khâu thượng nguồn) và vận chuyển, tàng trữ, phân phối dầu, khí (khâu trung nguồn), Chính phủ đã quyết tâm đầu tư cho khâu hạ nguồn (lọc, hóa dầu). Với nền móng đầu tiên được đặt ở Dung Quất, ngành công nghiệp lọc, hóa dầu Việt Nam từng bước phát triển vững chắc.

Kỳ 1: Khai sinh nhà máy lọc dầu số 1


Những bước đi ban đầu

Ngay sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã hợp tác với Công ty Beicip của Pháp để triển khai Dự án Liên hiệp Lọc, hóa dầu đầu tiên, dự kiến đặt tại Nghi Sơn (Thanh Hóa) với công suất 6 triệu tấn/năm, sản xuất nhiên liệu và một số chủng loại sản phẩm hóa dầu. Năm 1979, dự án tạm dừng vì gặp khó khăn về nguồn vốn.

Đầu những năm 80 của thế kỷ trước, theo Hiệp định hợp tác kinh tế – khoa học kỹ thuật giữa hai nước Việt Nam và Liên Xô, hai bên đã thống nhất địa điểm xây dựng khu liên hợp lọc, hóa dầu tại Thành Tuy Hạ (huyện Long Thành, Đồng Nai). Khu liên hợp lọc, hóa dầu dự kiến được đầu tư xây dựng trong 2 giai đoạn, giai đoạn 1 sẽ xây dựng một nhà máy lọc dầu với một dây chuyền chế biến dầu thô công suất 3 triệu tấn/năm; giai đoạn 2 dự kiến đầu tư thêm một dây chuyền chế biến dầu thô để nâng công suất lọc dầu lên 6 triệu tấn/năm và hình thành một khu hóa dầu sản xuất chất dẻo, sợi tổng hợp và một dây chuyển sản xuất phân đạm.

Đầu những năm 90, việc giải phóng một phần 3.000 ha mặt bằng và khảo sát địa chất sơ bộ, chuẩn bị các điều kiện phụ trợ để xây dựng khu liên hợp hợp lọc, hóa dầu đã được phía Việt Nam tiến hành. Lúc này, phía Liên Xô đã thực hiện xong thiết kế cơ sở và chuẩn bị các điều kiện đầu tư cho dự án. Tuy nhiên, do tình hình chính trị và thể chế của Liên Xô thay đổi nên dự án không tiếp tục được triển khai.

Trải qua nhiều dự án không triển khai được do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, đến năm 1994, địa điểm dự kiến đặt Nhà máy Lọc dầu (NMLD) số 1 của Việt Nam được chốt tại 1 trong 5 địa điểm: Nghi Sơn (Thanh Hóa), Hòn La (Quảng Bình), Dung Quất (Quảng Ngãi), Vân Phong (Khánh Hòa) và Long Sơn (Vũng Tàu).

Sau nhiều khảo sát và tính toán, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ra quyết định chính thức chọn Dung Quất (tỉnh Quảng Ngãi) là địa điểm đặt NMLD đầu tiên.

Gian nan NMLD Dung Quất

Dung Quất là địa điểm nằm ở trung tâm của đất nước. NMLD đặt ở vị trí này sẽ giống như một trái tim đập mạnh, đẩy những dòng chảy năng lượng đi khắp đất nước, để góp phần phát triển kinh tế và kiến tạo cuộc sống tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được một NMLD Dung Quất hiện đại, hoạt động an toàn, ổn định, đáp ứng gần 40% nhu cầu xăng dầu của đất nước như hiện nay, dự án xây dựng NMLD đầu tiên trải qua rất nhiều thăng trầm.

Ban đầu, Dự án NMLD Dung Quất được dự kiến triển khai với hình thức liên doanh với nước ngoài, tổng vốn đầu tư 1,7-1,8 tỉ USD. Nhưng khi không được phê duyệt một số ưu đãi đặc biệt về thuế, về bù lỗ dự án và điều kiện được phân phối sản phẩm trên thị trường Việt Nam, đối tác rút lui khỏi dự án.

Ngày 10-7-1997, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định phê duyệt xây dựng NMLD số 1 tại Dung Quất theo hình thức Việt Nam tự đầu tư. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (nay là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam – Petrovietnam) được Chính phủ giao làm chủ đầu tư của dự án. Ngày 8-1-1998, lễ khởi công NMLD số 1 được chính thức tiến hành tại xã Bình Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Thế nhưng, một lần nữa, công cuộc xây dựng NMLD đầu tiên của đất nước lại gặp khó khăn bởi những ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính tại châu Á. Trước tình hình đó, phương án liên doanh với Liên bang Nga được tính đến. Ngày 25-8-1998, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga đã ký Hiệp định Liên Chính phủ về việc xây dựng, vận hành NMLD số 1 tại Dung Quất. Ngày 28-12-1998, Công ty Liên doanh NMLD Việt – Nga (Vietross) được thành lập. Tỷ lệ góp vốn của hai phía là 50/50. Việc liên doanh với Liên bang Nga đã giải quyết được hai vấn đề lớn, đó là kêu gọi được nguồn vốn đầu tư và huy động được các chuyên gia có kinh nghiệm để thực hiện dự án.

Trong quá trình làm việc, có những vấn đề nảy sinh giữa Vietross với tổ hợp nhà thầu và hai bên trong liên doanh cũng không đồng thuận được một số vấn đề quan trọng. Do vậy, hai bên đã đề nghị Chính phủ hai nước quyết định chấm dứt liên doanh. Ngày 5-1-2003, đại diện hai bên đã ký biên bản chuyển giao toàn bộ nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia Vietross của phía Nga hoàn toàn sang phía Việt Nam. Con đường phát triển ngành công nghiệp lọc, hóa dầu Việt Nam lại gặp phải trở ngại.

Vietross giải thể, Dự án NMLD Dung Quất trở lại với phương án tự đầu tư và Ban Quản lý dự án (BQLDA) NMLD Dung Quất được thành lập. Suốt những năm sau đó, BQLDA phải giải quyết các vấn đề pháp lý của các hợp đồng sau khi chấm dứt liên doanh, kiện toàn bộ máy tổ chức và xử lý các vướng mắc về kỹ thuật, công nghệ, tài chính; đồng thời lập kế hoạch đào tạo nhân sự cũng như kế hoạch sản xuất…

 

Tính đến hết năm 2020, NMLD Dung Quất đã nhập hơn 77 triệu tấn dầu thô, tiêu thụ hơn 70 triệu tấn sản phẩm; doanh thu trên 49 tỉ USD; nộp ngân sách Nhà nước hơn 7 tỉ USD. Nếu đem so với số vốn đầu tư hơn 3 tỉ USD, số tiền Nhà nước thu lại từ NMLD Dung Quất đã gấp hơn 2 lần.

Tuy gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình triển khai, xây dựng, nhưng với quyết tâm cao của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cùng hàng vạn con người ngày đêm nỗ lực lao động trên công trường, NMLD Dung Quất đã cho ra dòng sản phẩm thương mại đầu tiên ngày 22-2-2009. Sau nhiều “đoạn trường”, ngày 30-5-2010, NMLD Dung Quất chính thức được bàn giao cho chủ đầu tư, kết thúc giai đoạn xây dựng và vận hành chạy thử và nghiệm thu nhà máy.

Ngày 6-1-2011, lễ khánh thành NMLD Dung Quất long trọng được tổ chức, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử ngành Dầu khí Việt Nam.

“Quả ngọt” ban đầu

Sau khi NMLD Dung Quất được vận hành, Việt Nam bắt đầu tự chủ được một phần nguồn cung xăng, dầu trong nước. Quan trọng hơn, NMLD Dung Quất giúp đất nước bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Đây có thể coi là nền móng để lĩnh vực công nghiệp lọc, hóa dầu Việt Nam tiếp tục phát triển.

Nếu như lịch sử lĩnh vực lọc, hóa dầu của thế giới đã kéo dài hơn 100 năm thì lĩnh vực lọc, hóa dầu của Việt Nam kể cả giai đoạn thai nghén, ý tưởng, mới kéo dài hơn 40 năm, rất non trẻ, nhưng đã gặt hái được những thành quả đáng tự hào.

Với NMLD đầu tiên, Việt Nam đã đáp ứng được gần 40% nhu cầu xăng dầu trong nước. Việc từng bước tự vận hành một nhà máy phức tạp với 15 phân xưởng công nghệ, 10 phân xưởng năng lượng phụ trợ, khu bể chứa dầu thô, bể chứa sản phẩm, hệ thống ống dẫn dầu thô và sản phẩm… đã khẳng định được năng lực của các chuyên gia, kỹ sư, công nhân Việt Nam.

Sau hơn 10 năm từ ngày cho ra dòng sản phẩm đầu tiên, cơ cấu sản phẩm của NMLD Dung Quất ngày càng đa dạng. Ngoài các sản phẩm truyền thống như xăng RON 92, RON 95, Diesel Auto, khí Propylene và hạt nhựa PP, khí hóa lỏng (LPG), dầu hỏa, nhiên liệu bay Jet A1, dầu nhiên liệu (FO), hiện nay NMLD Dung Quất đã sản xuất thêm được các loại sản phẩm mới như xăng E5 RON 92, nhiên liệu phản lực Jet A-1K, nhiên liệu Diesel L-62 sử dụng trên vũ khí trang bị, thiết bị quân sự và thiết bị đặc biệt.

Từ khi đi vào vận hành, NMLD Dung Quất luôn vận hành ổn định 100-107% công suất. Tính đến hết năm 2020, nhà máy đã nhập hơn 77 triệu tấn dầu thô, tiêu thụ hơn 70 triệu tấn sản phẩm; doanh thu trên 49 tỉ USD; nộp ngân sách Nhà nước hơn 7 tỉ USD. Nếu đem so với số vốn đầu tư hơn 3 tỉ USD, số tiền Nhà nước thu lại từ NMLD Dung Quất đã gấp hơn 2 lần. Quan trọng hơn, với NMLD Dung Quất, Việt Nam đã phần nào tự chủ, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

NMLD Dung Quất cho ra dòng sản phẩm thương mại đầu tiên ngày 22-2-2009. Ngày 30-5-2010, NMLD Dung Quất chính thức được bàn giao cho chủ đầu tư, kết thúc giai đoạn xây dựng và vận hành chạy thử và nghiệm thu. Ngày 6-1-2011, lễ khánh thành NMLD Dung Quất được tổ chức, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử ngành Dầu khí Việt Nam.

 

 

(Kỳ 2)

 

Ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có một địa danh mang tên “đồi ông Kiệt”. Cái tên này gắn liền với một giai thoại có thật. Đó là năm 1994, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đi khảo sát Dung Quất, ông đứng trên một ngọn đồi cao để quan sát toàn bộ khu vực. Sau 2 tháng kể từ chuyến đi ấy, ông ký Quyết định số 658/TTg về việc chọn Dung Quất là nơi đặt nhà máy lọc dầu (NMLD) đầu tiên của đất nước. Từ thời điểm đó, ngọn đồi được người dân gọi là “đồi ông Kiệt”. Khát vọng về phát triển lĩnh vực lọc hóa dầu Việt Nam được bắt đầu từ ngọn đồi đó, từ Dung Quất.

Kỳ 2: Khát vọng từ Dung Quất

Vai trò của ngành lọc hóa dầu

Trước khi các nguồn năng lượng thay thế phát triển, gần như tất cả các phương tiện giao thông, máy móc đều sử dụng năng lượng có nguồn gốc hóa thạch. Sản phẩm của nhà máy lọc dầu cho chúng ta các loại nhiên liệu như khí gas, xăng, dầu hỏa, nhiên liệu phản lực, nhiên liệu cho động cơ diesel (DO), nhiên liệu đốt lò (FO). Sản phẩm không làm nhiên liệu là các loại dung môi cho công nghiệp cao su, sản xuất sơn, dầu nhờn, mỡ bôi trơn, nhựa đường, sáp, parafin…

Đối với hóa dầu, các vật phẩm sử dụng hàng ngày đều có nguồn gốc từ ngành công nghiệp này. Ngành hóa dầu có sứ mệnh kết nối lĩnh vực khai thác dầu khí với các ngành công nghiệp quan trọng của nền kinh tế, từ dệt may, chất dẻo, cao su đến dược phẩm, mỹ phẩm… Công nghiệp hóa dầu là ngành công nghiệp hóa học làm thay đổi cấu trúc phân tử của nguyên liệu đầu vào là dầu mỏ, sản phẩm nhà máy lọc dầu để thu được những sản phẩm phục vụ nhu cầu quốc kế, dân sinh. Sản phẩm của công nghiệp hóa dầu là tơ nhân tạo, cao su nhân tạo và khoảng trên 2.000 sản phẩm khác. Để sản xuất ra nhiều loại sản phẩm như trên, công nghiệp hóa dầu cần sử dụng rất nhiều phương pháp hóa học khác nhau để tạo ra những sản phẩm chất lượng ngày càng cao phục vụ cho yêu cầu của các ngành kỹ thuật phát triển hiện nay của thế giới. Vì vậy có thể khẳng định, ngành công nghiệp lọc hóa dầu rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào.

Trong ngành Dầu khí Việt Nam cũng như trên thế giới, lĩnh vực lọc, hóa dầu là miếng ghép cuối cùng để hoàn thiện các cơ cấu của ngành từ khâu thượng nguồn, trung nguồn và hạ nguồn. Nếu như khâu thượng nguồn là các lĩnh vực tìm kiếm thăm dò, khai thác; khâu trung nguồn là vận chuyển, tàng trữ, phân phối thì khâu hạ nguồn là việc đưa các sản phẩm dầu, khí trực tiếp vào cuộc sống. Nếu không có nhà máy lọc dầu thì sau khi khai thác được dầu thô, chúng ta sẽ phải bán cho các nước có ngành lọc, hóa dầu phát triển và mua lại các sản phẩm xăng, dầu diesel… đã được lọc từ họ. Còn đối với lĩnh vực hóa dầu là hàng loạt những sản phẩm khác như đạm, tơ nhân tạo, cao su nhân tạo và hơn 2.000 sản phẩm khác. Việc này sẽ gây khó khăn trong việc dự trữ ngoại hối của đất nước, và quan trọng hơn là không tự chủ được an ninh năng lượng quốc gia. Chính phủ Việt Nam tốn rất nhiều công sức để xây dựng NMLD đầu tiên của đất nước là để giải quyết các bài toán này.

Tại sao lại chọn Dung Quất?

Vào thời điểm năm 1994, địa điểm dự kiến đặt NMLD đầu tiên của Việt Nam được chốt lại tại một trong 5 địa điểm: Nghi Sơn (Thanh Hóa), Hòn La (Quảng Bình), Dung Quất (Quảng Ngãi), Vân Phong (Khánh Hòa) và Long Sơn (Vũng Tàu). Thời điểm đó, tiêu thụ xăng dầu trong nước của 3 miền Bắc, Trung, Nam lần lượt là 35%, 18% và 47 %. Nếu căn cứ đơn thuần vào nhu cầu tiêu thụ và nguồn dầu thô nguyên liệu thì Long Sơn là ứng viên số 1. Bởi đây nằm trong vùng tiêu thụ xăng dầu lớn nhất cả nước và gần vùng dầu thô nguyên liệu Vũng Tàu.

Vịnh Vân Phong cũng là một lựa chọn “nặng ký” khi nơi đây có cảng nước sâu, thuận lợi cho việc xuất – nhập dầu thô và các sản phẩm, nhưng khi xem xét kỹ thấy Vân Phong có tiềm năng du lịch rất lớn nên Thủ tướng Võ Văn Kiệt quyết định để dành Vân Phong cho du lịch. Nghi Sơn cũng là một lựa chọn được đặt lên bàn cân, nhưng nếu sử dụng nguồn dầu thô trong nước, đây lại là địa điểm quá xa để vận chuyển nguyên liệu.

Còn Dung Quất có cảng nước sâu, phù hợp cả yếu tố kinh tế và chính trị. Chính phủ muốn biến Dung Quất (trong đó hạt nhân là NMLD) trở thành động lực để kéo kinh tế cả một vùng miền Trung nghèo khó vươn lên. Với vị trí tại trung tâm đất nước, NMLD Dung Quất như một trái tim “thình thịch đập” để đưa dòng chảy năng lượng như những dòng máu nóng đi khắp Việt Nam. Và câu chuyện phía sau đã trở thành lịch sử.

Yêu cầu của địa điểm để đặt nhà máy lọc dầu rất phức tạp, đòi hỏi nhiều yếu tố, chứ không đơn thuần là tìm ra một mảnh đất đặt nhà máy. Địa điểm làm nhà máy lọc dầu trước hết phải có cảng biển nước sâu, tàu 200.000 – 300.000 tấn có thể ra vào được. Muốn biết được có cảng biển nước sâu hay không phải có sự hiểu biết về điều kiện hải dương học, phải giải bài toán về động lực học biển để tìm ra các quy luật về dòng chảy, thủy triều và về nước dâng và các điều kiện về hóa học biển, và phải nghiên cứu khí tượng trên không, bão, áp lực gió, mưa với tần suất cả trăm năm/lần; nghiên cứu địa hình đáy biển… Qua sự nghiên cứu kỹ lưỡng của cố Tiến sĩ Trương Đình Hiển, những bài toán đó được giải và đưa về một đáp án phù hợp nhất đó là Dung Quất. Và với tầm nhìn sâu rộng, trí tuệ sáng suốt và sự quyết đoán của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Dung Quất được chọn là nơi bắt nguồn cho khát vọng phát triển ngành lọc hóa dầu Việt Nam.

Sự lựa chọn với tầm nhìn trăm năm

Trong một lần trả lời phỏng vấn, ông Đỗ Quang Toàn, nguyên Vụ trưởng Vụ Dầu khí, Văn phòng Chính phủ kể lại rằng, khi Thủ tướng Võ Văn Kiệt họp Chính phủ để bàn việc ra quyết định xây dựng NMLD đầu tiên, Thủ tướng có nói với các thành viên dự họp: “Hôm nay chúng ta quyết định chọn Dung Quất – Quảng Ngãi làm NMLD số 1. Đã quyết định rồi, tôi đề nghị các đồng chí không được bàn tán gì nữa, quyết là làm”.

Đến năm 2005, trong thư gửi cho Quốc hội tại Kỳ họp lần thứ 7, khóa XI, Thủ tướng Võ Văn Kiệt viết: “Cho đến nay, nếu được xem xét lại, tôi vẫn chọn Dung Quất làm địa điểm xây dựng NMLD như nhận định ban đầu, để góp phần rất có ý nghĩa cho khu vực kinh tế miền Trung và cho cả nước trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế”.

Quảng Ngãi thời điểm những năm 90 là một trong những tỉnh nghèo nhất nước, đất sản xuất ít, thiên tai thường xuyên; cơ sở hạ tầng thấp kém; nguồn ngân sách hạn hẹp và mất cân đối, việc đầu tư phát triển còn hạn chế; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Tin tức liên quan